Thứ Năm, 27 tháng 3, 2014

Bài 5: II Các Vua 3:1-12: "SỰ LOẠN NGHỊCH CỦA DÂN MÔÁP"


Bài 5.
Sự loạn nghịch của dân Mô-áp
(II Các Vua 3:1-12)
Phần giới thiệu:
Chương 3 cung ứng một loạt đối chiếu mạnh mẽ giữa tiên tri Êlisê và ba vị vua trong câu chuyện nầy; giữa các tình huống trước và sau; giữa những chương trình của con người và sự thông sáng của Đức Chúa Trời; và giữa cánh tay của xác thịt và cánh tay của Đức Giêhôva. Và, sau khi suy gẫm về những đối chiếu cùng các sự cố trong các phân đoạn Kinh thánh nầy, nó sẽ nhắc cho chúng ta nhớ chúng ta không sống trong một hoàn cảnh vô nghĩa đâu. Lời của Đức Chúa Trời đương diện với chúng ta ở giữa cuộc sống của chúng ta, trên từng phương diện, và trong mọi sự chúng ta bắt tay làm. Dù trong một phút thôi, chúng ta chưa hề sống đời sống của mình mà không có sự dính dáng của cả thì hiện tại và tương lai.
Người tin kính chơn thật xem trọng Đức Chúa Trời không những khi chúng ta cảm nhận được sự ấy, không những khi cuộc sống đầy đủ tiện nghi, hay chỉ khi mọi việc dường rắc rối và chúng ta bị buộc phải xây về phía Đức Chúa Trời trong nỗi thất vọng. Xem trọng Đức Chúa Trời có nghĩa là ở trong, sống theo, suy nghĩ, nói năng, quyết định hay lựa chọn mọi sự và trong mọi sự bởi Ngài đang làm gì và phán gì, bởi sự ứng dụng thực chất thiêng liêng của Ngài, sự sống của Ngài, và các lẽ thật trong Kinh thánh hay các sự dạy của Ngôi Lời.
Ngày nay nhiều người có một tri thức về Đức Chúa Trời; họ tin rằng Ngài đang hiện hữu; thậm chí họ còn tin nơi Con của Ngài nữa, nhưng họ không nắm lấy Ngài nơi Lời của Ngài. Nhiều người đang đùa giỡn trong đời sống tôn giáo của họ. Trong suốt tuần lễ, theo nhận định, những thứ tự ưu tiên và cách nói năng của họ, họ đang hành động giống như thể Đức Chúa Trời chẳng có dính dáng gì hết thảy. Đến ngày Chúa nhựt, họ làm một ít ‘không phải cho Đức Chúa Trời’, mà cho phần còn lại của tuần lễ, làm ăn buôn bán như bình thường.
Trong II Các Vua 3 chúng ta thấy nhiều cấp độ khác nhau về điều nầy trong những nhân vật có trong câu chuyện. Thứ nhứt có Êlisê, tiên tri của Đức Chúa Trời, một nhân vật luôn luôn kính trọng Đức Chúa Trời – Đức Chúa Trời và Lời của Ngài là sự sống của ông. Kế đó có Giô-sa-phát, một vị vua nhơn đức, một nhân vật rất kính trọng Đức Chúa Trời và tìm kiếm đường lối của Chúa, thế mà có nhiều lần ông cũng đã thất bại. Sau cùng có Giô-ram, vua của Israel, một nhà vua gian ác. Ông ta tin nơi sự kiện có Đức Giêhôva của Cựu Ước, nhưng ông ta không hề kính trọng Đức Chúa Trời, ít nhất cho tới khi ông bị đẩy vào một tình thế khó xử, và thậm chí ngay khi ấy, chỉ bởi phương thức thủ đoạn, một phương thức để thoát ra khỏi tình thế chẳng đặng đừng của mình.
Sự tin kính (kính trọng Đức Chúa Trời theo Lời của Ngài) hay thiếu sự tin kính đó, mà không có những hàm ý hay hậu quả quan trọng. Chúng ta gặt lấy những gì chúng ta gieo. Cuộc sống đầy dẫy những nhân và quả. Đức Chúa Trời đang nắm quyền tể trị, còn con người đang gánh lấy trách nhiệm. Đối với một cấp độ lớn, chúng ta là một sản phẩm của những sự lựa chọn mà chúng ta đưa ra trong cuộc sống hàng ngày.
Trong phân đoạn Kinh thánh ở trước mặt chúng ta đây, Giô-ram phải đối mặt với sự loạn nghịchh của dân Mô-áp, một trong những kẻ thù lâu đời của dân sự Đức Chúa Trời. Chính Ba-lác, vua Mô-áp, nhiều năm trước là người đến tìm sự giúp đỡ của tiên tri Balaam trong nổ lực rủa sả dân Israel. Mô-áp ngay lập tức đã băng qua Biển Chết từ xứ Giu-đa, phía Nam của các bộ tộc sống dọc theo sông Giô-đanh. David đã thắng hơn dân Mô-áp và khiến nó thành một xứ chư hầu, hiển nhiên là cho phép họ có vua riêng, nhưng phải chịu cống thuế nặng nề và công nhận sự thần phục của họ đối với David (II Samuên 8:2; I Sử ký 18:2). Sự loạn nghịch của họ không những là một mối đe doạ cho vương quốc Israel ở phía Bắc, mà còn cho xứ Giu-đa nữa. Sự loạn nghịch nầy không nghi ngờ chi nữa là một thử nghiệm được Đức Giêhôva ấn định để lôi kéo sự chú ý của Giô-ram. Giô-ram đã đáp ứng như thế nào? Ông ta có trở lại với Đức Giêhôva hay với cánh tay của xác thịt, với các giải pháp của riêng ông?
Các bài học ở đây rất là rõ ràng. Khi phải đối mặt với thử thách và những khó chịu trong cuộc sống, chúng ta đáp ứng ra sao? Có phải chúng ta sẽ suy nghĩ cẩn thận về những gì Đức Chúa Trời đang làm hay tìm cách làm ra trong đời sống của chúng ta? Có phải Ngài đang kêu gọi sự chú ý vào tội lỗi? Vấn đề có phải là một tấm gương quở trách không? Hay Đức Chúa Trời đang tìm cách sử dụng chúng ta trong một phương thức nào đó hoặc dạy dỗ chúng ta một bài học thuộc linh quan trọng? Hay chúng ta sẽ xây về những đấu pháp của chúng ta?
Bởi những đấu pháp của con người, chúng ta đang nói về những sự việc mà con người thực thi để xoay chuyển các nan đề của cuộc sống tách ra khỏi chiều hướng và sự vận dụng của Đức Chúa Trời. Sau đây là một danh sách ngắn các hình ảnh trong Kinh thánh mô tả xu hướng thường hay có nầy trong hết thảy chúng ta. Chúng đã được cung ứng như những lời cảnh cáo cho cả xu hướng và các hậu quả.
(1) Hình ảnh nói về đời sống của con người đầy dẫy với những thay thế của trần gian. Giống như một người đang rót đầy một chai rỗng, chúng ta thường tìm cách làm đầy sự trống vắng của chúng ta với những thay thế  của trần gian để làm thoả mãn những nhu cần của cuộc sống thay vì tin cậy nơi Chúa và làm đầy dẫy đời sống chúng ta với Ngài và Lời của Ngài (Êsai 2:5-12). Trong Êsai 2.6, từ ngữ “đầy dẫy” là từ Hy bá lai, giống đực, từ nầy chỉ ra ý niệm nói tới nổ lực cất bỏ đi sự trống vắng, nan đề sự trống vắng cá nhân, nhưng đây là việc mà chỉ có Đức Chúa Trời mới làm đầy dẫy được mà thôi. Từ ngữ nầy đã được sử dụng nói tới sự làm đầy dẫy một thứ giống như một cái vò hay một cái chai với một chất lỏng cần thiết (đối  chiếu Giăng 7:37-39).
(2) Hình ảnh nói tới việc nương vào một cây sậy bén đâm thủng tay là một minh hoạ rất hay nói tới những hậu quả có hại của việc hướng tới và tin tưởng vào chính những giải pháp riêng của mình (Êsai 36:6).
(3) Hình ảnh nói tới việc đốt lên những ngọn đuốc riêng bởi đó chúng ta tìm cách lèo lái cuộc sống của mình. Thay vì tin cậy Đức Chúa Trời bằng cách bước đi theo ánh sáng của Lời Ngài, chúng ta có khuynh hướng bào chữa cho những nguồn sáng riêng của chính mình (Êsai 50:10-11).
(4) Hình ảnh nói tới bầy chiên đi lạc vì chúng có xu hướng đi theo đường riêng mình thay vì bước theo Đức Giêhôva là Đấng Chăn Giữ của chúng ta (Êsai 53:6; Thi thiên 23).
(5) Hình ảnh nói tới việc xây hồ chứa nước riêng cho mình thay vì uống từ những nguồn chứa của Đức Chúa Trời như dòng nước duy nhứt và là Nước Sống. Nhưng hồ không chứa nước được, những hồ chứa của chúng ta luôn luôn bị vỡ ra (Giêrêmi 2:13).
(6) Hình ảnh nói tới việc nương vào cánh tay của xác thịt. Tôi được nhắc nhớ về hình ảnh trên hộp soda có vẽ hình cánh tay và cây búa với lời hứa  ngụ ý rằng sản phẩm nầy sẽ có hiệu quả tốt, nhưng cánh tay xác thịt sẽ không có hiệu quả như thế đâu (Giêrêmi 17:5).
Bức chân dung của Giô-ram (3:1-3)
                        1Giô-ram, con trai A-háp, lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri, năm thứ mười tám đời vua Giô-sa-phát vua Giu-đa, và cai trị mười hai năm.2Người làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, song không giống như cha và mẹ người; bởi vì người có trừ bỏ tượng thần Ba-anh mà cha người đã dựng lên. 3Dầu vậy, người cũng ham theo tội lỗi của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, tức là tội đã gây cho Y-sơ-ra-ên can phạm. Người chẳng hề chịu bỏ đi.
Giô-ram, cháu nội của Aháp gian ác kia, lên ngôi làm vua của Israel (Vương quốc phía Bắc). Hãy nhớ, không có một vị vua nào trong các vua nhơn đức nào đã bước theo Đức Giêhôva ở Vương quốc phía Bắc. Trong khi họ đã tin và biết rất rõ rằng Đức Giêhôva, Chúa Tể của Israel là Đức Chúa Trời, thế mà họ đã quên phứt Ngài và sống trong tình trạng bội đạo thờ lạy hình tượng, dính líu vào hệ thống thờ hình lạy tượng gian ác và kín nhiệm của xứ Babylôn cổ.
Trong câu 2 chúng ta đọc 2Người làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va”. Giô-ram không phải là một con người tin kính, ông ta cũng không phải là một người xem trọng Đức Chúa Trời. Ông ta không phạm tội theo đường lối của Aháp và Giêsabên hay cha mình là Achaxia, tuy nhiên, câu 3 cho chúng ta biết, ông bám lấy mọi tội lỗi của Giêrôbôam. “Ham theo”dabaq tiếng Hy bá lai, “gắn bó với, bám lấy, theo sát”. Từ nầy chứa ý nghĩa của việc bám lấy ai đó hay việc gì với cảm giác ưa thích và trung thành. Người nam sống gắn bó với vợ của mình (Sáng thế ký 2:24). Rutơ đã gắn bó với Naômi (Rutơ 1:14). Dân sự Giu-đa đã gắn bó với David vua của họ trong suốt sự loạn nghịch của Sêba (II Samuên 20:2). Rõ ràng, Giô-ram đã xây khỏi sự thờ lạy thần Ba-anh, ông ta tiếp tục trung thành với sự thờ lạy con bò con bằng vàng và đã liên tục mở mang sự thờ lạy và sự bội đạo nầy trong xứ  Israel (xem I Các Vua 12:24-33).
Chắc chắn câu chuyện nhớp nhúa nầy nói tới các vua phía Bắc đang dạy cho chúng ta một nguyên tắc rất quan trọng. Mọi niềm tin và giá trị của chúng ta, với cách ứng xử mà các hệ thống đức tin đó tạo ra, đang trải một cái bóng khá dài và đang có nhiều dính díu xấu xa giáng trên con cháu của chúng ta. Một đứa con không được tốt thường là kết quả của một người cha không được tốt (mặc dù không luôn luôn là như thế) và con cái hư hỏng thường là sản phẩm của bậc cha mẹ hư hỏng. Hãy chú ý qua sự so sánh phân đoạn Kinh thánh sau đây.
II Sử ký 17:3-6: “3Đức Giê-hô-va ở cùng Giô-sa-phát, vì người đi theo đường lối đầu tiên của Đa-vít, tổ phụ mình, không tìm cầu thần Ba-anh, 4nhưng tìm cầu Đức Chúa Trời của tổ phụ mình, giữ theo các điều răn của Ngài, chớ chẳng làm như Y-sơ-ra-ên. 5Vì vậy Đức Giê-hô-va khiến nước vững chắc trong tay người; cả Giu-đa dâng lễ vật cho Giô-sa-phát, người được của cải nhiều và sự vinh hiển lớn. 6Người vững lòng theo các đường lối của Đức Giê-hô-va; lại phá dỡ các nơi cao và những thần tượng A-sê-ra khỏi Giu-đa.
Nan đề loạn nghịch tại xứ Mô-áp (3:4-5)
4Vả, Mê-sa, vua dân Mô-áp, nuôi nhiều bầy chiên, hằng năm người tiến cống cho vua Y-sơ-ra-ên một trăm ngàn chiên con, và trăm ngàn chiên đực chưa hớt lông. 5Nhưng xảy ra khi A-háp băng hà, vua Mô-áp dấy nghịch cùng vua Y-sơ-ra-ên.
Mô-áp là một dân tà giáo, chuyên thờ lạy hình tượng, Đức Chúa Trời đã bắt phục họ dưới đời trị vì của David vì họ luôn luôn là mối đe doạ cho chủ quyền đất nước Israel và quyền hành của họ trên khắp xứ – là vùng đất mà Đức Chúa Trời đã hứa với Ápraham và đã ban cho dân tộc. Tuy nhiên, cuộc nổi loạn nầy của Mô-áp là một sự trừng phạt của Đấng thiêng liêng cho Giô-ram vì ông đã quên Đức Giêhôva. Đây là nổ lực giàu ơn khác của Đức Chúa Trời để lôi kéo sự chú ý của các vua phía Bắc.
Những nan đề trong đời sống, và các áp lực đều là đại biểu và “những thứ phải coi chừng” của Đức Chúa Trời. Chúng đã được ấn định làm công cụ của Đức Chúa Trời, những tấm gương quở trách, và những gia sư thiêng liêng, chúng có tác dụng riêng của chúng, chúng ta cần phải nhìn xem chúng như quan điểm thiêng liêng của Kinh thánh và hãy đáp ứng là điều cần thiết theo Lời của Đức Chúa Trời. Tôi được nhắc nhớ về lời lẽ của tác giả Thi thiên trong Thi thiên 119.
67Trước khi chưa bị hoạn nạn, thì tôi lầm lạc; Nhưng bây giờ tôi gìn giữ lời Chúa.
71Tôi đã bị hoạn nạn thật lấy làm phải, Hầu cho học theo luật lệ của Chúa.
75Hỡi Đức Giê-hô-va, tôi biết rằng sự xét đoán của Ngài là công bình, Và ấy là bởi sự thành tín mà Ngài làm cho tôi bị khổ nạn.
Những kế sách của Giô-ram (3:6-7)
6Bấy giờ, vua Giô-ram đi ra khỏi Sa-ma-ri kiểm điểm cả Y-sơ-ra-ên. 7Người sai báo với Giô-sa-phát, vua Giu-đa, rằng: Dân Mô-áp đã phản nghịch cùng tôi. Vua có muốn đến cùng tôi giao chiến với Mô-áp chăng? Giô-sa-phát đáp rằng: Tôi sẽ đi; tôi như ông, dân sự tôi như dân sự ông, ngựa tôi như ngựa của ông.
Giờ đây hãy trở lại với II Các Vua 3 và những kế sách của Giô-ram. Hãy chú ý xem, điều chi ông không làm? Ông không tìm cầu Đức Giêhôva. Ông không cho mời một vị tiên tri của Đức Chúa Trời hoặc thậm chí đã không cầu nguyện. Ông chỉ hoạch định tấm lòng chẳng màng chi đến Đức Chúa Trời. Thay vì thế, ông đã hướng vào cánh tay của xác thịt. Ông nương vào sự liên minh với con người, vào sức mạnh và chiến lược quân sự dường như rất tự nhiên và đúng đắn đối với con người. Nhưng chính Đức Giêhôva mới là Đấng sửa soạn và thiết lập – vì vậy Đức Giêhôva đã hoạch định một việc rất khác thường
Trước tiên hãy chú ý vào sinh hoạt và mọi chương trình của Giô-ram. (a) Ông tập hợp hết thảy người Israel lại. Ông tập trung quân đội lại để sửa soạn đánh trận (nghĩa là, sự tin tưởng của ông đặt vào số lượng). (b) Kế đó ông giành được sự trợ giúp của Giôsaphát, một người tin kính mà Đức Chúa Trời đã chúc phước thật rời rộng cho. Giôsaphát vốn có một đội quân rất chính quy, nhưng ông đã ở trong mối liên minh với Aháp, tổ phụ của Giôram, điều nầy quả là không khôn ngoan lắm. Vậy là đã có một khe hở nhỏ sơ sót trong chiếc áo giáp thuộc linh của Giôsaphát.
Giôsaphát đồng ý trợ giúp, mặc dù đây là một quyết định thiếu khôn ngoan nữa. Tôi dám chắc Giô-ram đã nghĩ rằng rồi đây họ sẽ thành công và dân Mô-áp sẽ run rẩy trong giày của họ. Câu 8 cho thấy chiến lược quân sự của họ, là chiến lược dành cho người chắc chắn chiến thắng! Vua xứ Mô-áp sẽ mong đợi họ đến từ phía Bắc quanh đỉnh của Biển Chết, nhưng thay vì thế họ đã đưa quân xuống qua ngả đồng vắng qua cực Nam của Biển Chết, qua xứ Êđôm rồi ngược lên Mô-áp từ phía Nam. Bởi chiến lược khôn khéo nầy, họ nghĩ chúng sẽ kinh ngạc và sẽ đánh bại quân Mô-áp. Nhưng hãy nhớ.
Châm ngôn 14:12: “Có một con đường coi dường chánh đáng cho loài người; Nhưng đến cuối cùng nó thành ra nẻo sự chết”.
Giêrêmi 10:23: “Hỡi Đức Giê-hô-va, tôi biết đường của loài người chẳng do nơi họ, người ta đi, chẳng có quyền dẫn đưa bước của mình”.
Thi thiên 33:16-18: “Chẳng có vua nào vì binh đông mà được cứu, Người mạnh dạn cũng không bởi sức lực lớn lao mà được giải thoát. Nhờ ngựa cho được cứu, ấy là vô ích, Nó chẳng bởi sức mạnh lớn của nó mà giải cứu được ai. Kìa, mắt của Đức Giê-hô-va đoái xem người kính sợ Ngài, Cố đến người trông cậy sự nhân từ Ngài”.
Trong mọi kế sách và chuẩn bị của con người, ông luôn luôn cầu vấn Đức Giêhôva vì như chúng ta thấy từ những câu Kinh thánh ở trên đây, ấy không bởi khả năng và sự khôn khéo của con người để lèo lái, chuẩn bị, hoạch định và thiết dựng đường lối của mình.
Châm ngôn 20:24: “Các bước của loài người do nơi Đức Giê-hô-va nhất định; Vậy, loài người hiểu đường lối mình sao được?”
Đúng nghĩa là: “Các bước của loài người đã được ấn định bởi Đức Giêhôva”, “Các bước của loài người đến từ Đức Giêhôva”. Có hai ý chính ở đây: (a) Con người cần sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời, tri thức và sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời, và việc làm của Đức Chúa Trời vì ích cho con người. (b) Đức Chúa Trời đang hành động cách có quyền trên từng đời sống của con người để đưa ra những biến cố, các trạng huống, v.v…để tỏ ra mục đích và chương trình của Ngài cho đời sống của người (nam hay nữ). Nếu thực như vậy (và đúng như thế) thì chúng ta có trách nhiệm tìm kiếm sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời và sống nương cậy vào Ngài trong mọi sự chúng ta làm. Đây là quan điểm của Gia-cơ.
Gia-cơ 4:13-17: “Hỡi anh em, là kẻ nói rằng: Hôm nay hoặc ngày mai, ta sẽ đi đến thành kia, ở đó một năm, buôn bán và phát tài, song ngày mai sẽ ra thế nào, anh em chẳng biết! Vì sự sống của anh em là chi? Chẳng qua như hơi nước, hiện ra một lát rồi lại tan ngay. Anh em phải nói trái lại: Ví bằng Chúa muốn, và ta còn sống, thì ta sẽ làm việc nọ việc kia. Kìa anh em lấy những lời kiêu ngạo mà khoe mình! Phàm khoe khoang như vậy là xấu. Cho nên, kẻ biết làm điều lành mà chẳng làm, thì phạm tội.
Thắc mắc, giống như Vua Solomon đã thắc mắc là: “Vậy, loài người hiểu đường lối mình sao được?” Nghĩa là, làm sao người nắm bắt được các sự cố và hoàn cảnh của đời sống mình cho được? Ai có thể hiểu được Đức Chúa Trời sẽ làm gì? Chỉ bởi đức tin nơi sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời, tri thức của Lời Đức Chúa Trời, bằng cách tìm kiếm sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời, và bằng cách kính sợ Đức Chúa Trời và xem trọng sự vận hành của Ngài trong đời sống của chúng ta! Nhưng dẫu thế, phần nhiều những điều Đức Chúa Trời sẽ làm vẫn ở trong sự kín nhiệm, là việc chúng ta cần phải đặt trong các mục đích và sự khôn ngoan đầy yêu thương của Ngài cho tới chừng chúng ta sống trong sự hiện diện của Ngài trên thiên đàng. Tôi được nhắc nhớ về Truyền đạo 7:13-14,
“Hãy xem xét công việc của Đức Chúa Trời; vì vật gì Ngài đã đánh cong (nghĩa là, những thử thách và áp lực trong cuộc sống), ai có thể làm ngay lại được? Trong ngày thới thạnh hãy vui mừng, trong ngày tai nạn hãy coi chừng; vì Đức Chúa Trời đặt ngày nầy đối với ngày kia, hầu cho người đời chẳng thấy trước đặng điều xảy ra sau mình”.
Đức Chúa Trời đem cả hai: sự thịnh vượng và nghịch cảnh vào đời sống chúng ta vì các mục đích cao cả của Ngài, mà không đưa ra chìa khoá chương trình của Ngài. Trong khi chúng ta tin cậy và đặt đời sống chúng ta vào hai bàn tay yêu thương và toàn tri của Ngài, là chìa khoá cho những gì Ngài sẽ làm trổi hơn sự suy tưởng của chúng ta.
Vậy thì, chúng ta có trách nhiệm phải làm gì? “Lòng người toan định đường lối mình; Song Đức Giê-hô-va chỉ dẫn các bước của người” (Châm ngôn 16:9).
Lý trí con người hoạch định (hashab, tiếng Hy bá lai) có nghĩa là “suy nghĩ rất sáng tạo, những chương trình rất sáng tạo”, v.v… Loài người cần phải hoạch định và suy nghĩ rất nặng nề về đời sống của họ, họ là ai, họ sẽ đi về đâu, và về những hậu quả và hàm ý của mọi sự họ quyết định và hành động. Nhưng Đức Giêhôva hướng dẫn (thì chưa hoàn thành của từ ngữ Hy bá lai, kun). Ý cơ bản là “thiết dựng”. Từ nầy có ý nói (a) chuẩn bị giống như dọn bàn ăn, hay như chuẩn bị và trang bị một đội quân đi đánh trận, và rồi (b) thiết dựng, làm cho chắc chắn các bước chân của người. Mục đích là, Đức Chúa Trời hoàn toàn có cả hai: lời nói sau cùng và lời nói tốt nhứt cho đời sống của chúng ta.
Châm ngôn 16:3: “Hãy phó các việc mình cho Đức Giê-hô-va, thì những mưu ý mình sẽ được thành công”.
“Phó” (từ Hy bá lai là galal) có ý nói tới “chuyển cho người khác, không để gần mình”. Hãy chú ý “các việc” có ý nghĩa số nhiều, mọi sự. Chúng ta cần phải xem trọng sự dính díu và hoạt động của Đức Chúa Trời trong đời sống của chúng ta, hãy tìm kiếm sự dẫn dắt, sự vùa giúp và sự tiếp trợ của Ngài. Chúng ta cần phải hướng đời sống của mình vào Chúa – cố định, nắm bắt và bám sát. Chúng ta cần phải chấp nhận những điều xảy ra trong đời sống của mình như một phần gắn bó của Đức Chúa Trời với chúng ta.
“Thì những mưu ý mình sẽ được thành công” (kun). Quí vị đương sống trong hai bàn tay khôn ngoan và an ninh khi quí vị ở trong hai bàn tay của Chúa vì Đức Chúa Trời, trong sự khôn ngoan, yêu thương, và tể trị trọn vẹn của Ngài, đang ở trong sự vận hành, chuẩn bị và thiết dựng ý chỉ của Ngài trong đời sống của quí vị.
Từ ngữ “các bước” như đã được sử dụng trong Châm ngôn 16:9 và Giêrêmi 10:23 là từ ngữ Hy bá lai mis’ed từ chữ saad có nghĩa là “nhịp đi”. Từ nầy được sử dụng nói tới cách chuyển động có phương pháp của một nhóm hay một đội lính cơ động từ bước nhắm tới mục tiêu. Từ ngữ nầy mang theo với nó ý tưởng và nguyên tắc các bước đi của chúng ta đang có cả hai: mục đích và các hậu quả, một là tốt hai là xấu, một là phước hạnh hay là tổn thương (đối chiếu Châm ngôn 16:4).
Trong Châm ngôn 8.7 động từ nầy đã được sử dụng nói tới một cách đi đứng có phương pháp, từng bước một hướng tới nhà của kỵ nữ, khi biết rõ hướng mà mình sẽ đi, nhưng lại bất chấp trước các hậu quả của những bước chân mình (các câu 23-29).
Những bước chân của chúng ta không phải là không có hàm ý và phần nhiều trong số đó, là những bước rất nguy hiểm. Vì vậy chúng ta phải xem trọng Đức Chúa Trời. Chỉ một mình Ngài mới có thể thiết dựng đời sống hay đường lối của chúng ta. Đức Chúa Trời gắn bó một cách cá nhân. Ngài đã sửa soạn cả hai: con người và tình huống, hoàn cảnh, (a) làm cho đường lối chúng ta được bằng phẳng, đúng đắn và thiết dựng (nghĩa là, cung ứng ý nghĩa, mục đích và sự đầy dẫy chơn thật, hay (b) Ngài sẽ sửa soạn các tình huống khác để xoay chuyển chúng ta, ngăn chặn và quở trách con đường hiện tại của chúng ta hầu khiến cho chúng ta biết tin cậy và hướng về Ngài, nếu chúng ta biết ý thức và đáp ứng công việc Ngài (đối chiếu Thi thiên 112:7).
Tình thế khó xử trong đồng vắng (3:8-12)
“Người lại tiếp: Chúng ta sẽ đi lên đường nào? Giô-ram đáp: Bởi con đường của đồng vắng Ê-đôm. Ấy vậy, vua Y-sơ-ra-ên, vua Giu-đa và vua Ê-đôm đồng kéo ra, đi vòng bảy ngày đường, đoạn họ không có nước cho đạo binh và súc vật theo. Vua Y-sơ-ra-ên bèn nói rằng: Than ôi! Đức Giê-hô-va đã gọi ba vua này đến đặng nộp vào tay Mô-áp. Nhưng Giô-sa-phát hỏi: Ở đây há chẳng có tiên tri nào của Đức Giê-hô-va để chúng ta nhờ người mà cầu vấn Đức Giê-hô-va chăng? Một đầy tớ của vua Y-sơ-ra-ên thưa rằng: Ở đây có Ê-li-sê, con trai của Sa-phát, là kẻ đã hầu việc Ê-li. Giô-sa-phát tiếp: Lời phán của Đức Giê-hô-va vốn ở nơi người. Vậy, vua Y-sơ-ra-ên, Giô-sa-phát, và vua Ê-đôm, bèn đi đến người”.
Đồng vắng hay sa mạc, vì cớ sự trơ trọi của nó, đôi khi làm biểu tượng cho đời sống không kết quả của xác thịt và ở ngoài chương trình của Đức Chúa Trời. Mới đây tôi được nhắc nhớ về điều nầy trong kỳ nghỉ của tôi khi chúng tôi lái xe qua Death Valley (trũng chết). Tôi không hiểu được, làm sao có ai muốn đến sống ở đó. Thực vậy, khi chúng tôi đang ngồi trên xe, tôi lấy làm ngạc nhiên: “Tại sao chúng ta phải đi con đường nầy trong thế gian?” Giêrêmi đã có tư tưởng nầy trong trí khi ông viết:
Giêrêmi 17:5-6: “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Đáng rủa thay là kẻ nhờ cậy loài người, lấy loài xác thịt làm cánh tay, lòng lìa khỏi Đức Giê-hô-va. Nó sẽ như thạch thảo trong sa mạc, không thấy phước đến, nhưng ở trong nơi đồng vắng khô khan, trên đất mặn không dân ở”.
Nếu các vị vua nầy đã biết rõ về Murphy, họ đã tưởng Luật Murphy chắc chắn đã gắn liền ở đây. Nếu mọi việc đi vào chỗ sai lầm, họ sẽ rơi vào thời điểm cực kỳ khó khăn nhất. Nhưng chúng ta hãy nhớ một việc, cái gọi là Luật Murphy thực sự là sự gia công những luật lệ của Đức Chúa Trời và thường là sự can thiệp trực tiếp của Đức Chúa Trời vào trong mọi vụ việc của chúng ta.
Chúng ta đang sống trong một đất bất toàn và chịu xét đoán. Mọi việc đều đổ vỡ và suy tàn. Có tội lỗi và Satan và mọi sự nầy đang tác động tạo ra nhiều nan đề và khó khăn. Nhưng Đức Chúa Trời sử dụng những điều nầy, và thường sắp đặt các nan đề để lôi kéo sự chú ý của chúng ta hay bày tỏ ra quyền phép của Ngài. Vì vậy, trong câu 9 chuyến đi của ba vị vua vào trong đồng vắng, nhưng họ đã bước vào chỗ mà họ không ngờ. Những hố nước họ đã tính đến không có ở đó và thay vì đưa dân Mô-áp trở lại dưới sự thần phục, họ phải đối mặt với tính khả thi của thất bại và chết chóc của chính họ – bị quét sạch trong sa mạc.
Ở đây là nan đề mẫu “không có nước” trong cuộc sống, một thử nghiệm, một thách thức, một nan đề thình lình xen vào trong kinh nghiệm của cuộc sống. Quí vị sẽ làm gì? Đối với những nan đề mà quí vị đang đối diện với ngay bây giờ hay quí vị đã đối mặt với vào tuần qua hoặc sẽ đối diện trong tuần lễ sắp tới? Như với ba vị vua, chúng ta có hai sự lựa chọn: (a) chúng ta có thể xem trọng Đức Chúa Trời và đáp ứng với Ngài trong đức tin hay (b) chúng ta có thể phản ứng lại, đổ thừa Đức Chúa Trời và những người khác trong sự vô tín. Phân đoạn Kinh thánh của chúng ta cung ứng cho chúng ta một hình ảnh minh hoạ cho cả hai phần đáp ứng.
Trong câu 10 chúng ta thấy phản ứng của Giô-ram: “Vua Y-sơ-ra-ên bèn nói rằng: Than ôi! Đức Giê-hô-va đã gọi ba vua này đến đặng nộp vào tay Mô-áp”.
Hãy nhớ, khi nương vào phản ứng của chúng ta, áp lực sẽ khiến cho chúng ta ra tốt hơn hay tệ hại hơn (cay đắng). Nó nương vào thái độ và viễn cảnh mà với đó chúng ta nhìn xem và đối diện với nan đề. Mục sư Swindoll nói thẳng: “Các thái độ hết thảy đều rất quan trọng”. Thái độ theo lý trí của Giô-ram là tiêu cực, nhưng đấy là khuôn mẫu của người nào từ chối quan tâm đến Chúa một cách thực sự, hầu cho  ông bước đi nương cậy nơi Ngài trong mọi phương diện của cuộc sống. Cách làm điển hình là bất chấp Đức Chúa Trời trước sự rắc rối, nhưng rồi đổ thừa Đức Chúa Trời và nhiều người khác sau khi rắc rối đến.
Cũng có nhiều yếu tố mẫu khác ở đây – vô tín và tội lỗi. Mặc dù Giô-ram bất chấp sự gắn bó của Đức Chúa Trời với đời sống ông trước khi gặp rắc rối nầy, giờ đây ông nhận biết hành động tể trị của Đức Chúa Trời giống như một sự phán xét và sự can thiệp thiêng liêng. Thay vì đáp ứng theo đức tin và ăn năn, hay thay vì tìm kiếm Đức Giêhôva, mọi sự ông có thể làm là kêu la trong thất bại như một người không có sự trông cậy. “Than ôi” là từ ngữ Hy bá lai, “than ôi, a, ồ không”. Từ ngữ của chúng ta “ah” thực tế là một sự chuyễn ngữ. Thú vị thay, từ nầy thường được sử dụng với “Chúa” hay “Giêhôva Đức Chúa Trời”. Ở đây, nó là một cách bày tỏ ra cho thấy chẳng có một hy vọng gì hết, chỉ có tội lỗi và đau khổ bất hạnh mà thôi. Ông ta sẽ phản ứng khác như thế nào? Bởi sự lãnh đạm liên tục của ông với Đức Chúa Trời, ông đã làm cho tấm lòng mình ra chai cứng.
Mọi sinh hoạt hàng ngày của chúng ta đều có những hàm ý rất quan trọng – một là chúng khuyến khích sự tin kính khi chúng ta dành thì giờ với Chúa hay chúng khuyến khích sự bất kỉnh khi chúng ta ngày càng bất chấp Ngài. Tấm lòng cùng mọi thái độ theo lý trí của chúng ta phải có thực đơn đúng đắn thuộc linh để sống theo và đấy là một sự lựa chọn mà mỗi một chúng ta đều đã đối diện với mỗi ngày. Tôi được nhắc nhớ về tiếng kêu la của David trong Thi thiên 5.         Ở đó ông công bố quyết định của mình: “Đức Giê-hô-va ôi! buổi sáng Ngài sẽ nghe tiếng tôi; Buổi sáng tôi sẽ trình bày duyên cớ tôi trước mặt Ngài, và trông đợi” (Thi thiên 5:3).
Trong câu 11a chúng ta thấy một sự đối chiếu nơi phần đáp ứng của vua Giôsaphát.
Hãy chú ý liên từ “nhưng”. “Nhưng Giô-sa-phát hỏi: Ở đây há chẳng có tiên tri nào của Đức Giê-hô-va để chúng ta nhờ người mà cầu vấn Đức Giê-hô-va chăng?” Đúng là một thái độ và viễn cảnh khác của lý trí! Chúng ta thấy một thái độ không những công nhận sự gắn bó của Đức Giêhôva với đời sống của họ, mà còn là thái độ bằng lòng kêu cầu Chúa để có được sự dẫn dắt, sự khôn ngoan, sự vùa giúp và sự giải cứu. Một thái độ theo lý trí như thế nhìn thấy bàn tay quyền năng của Đức Chúa Trời. Nó chấp nhận những thử thách như các tấm gương quở trách, như những cánh cửa sổ đầy ánh sáng, như những cơ hội để biểu thị quyền phép của Đức Chúa Trời, tình yêu thương và ân điển của Đức Chúa Trời, và như các công cụ cho sự biến đổi của chúng ta.
Các vị tiên tri là những phát ngôn viên của Đức Chúa Trời và thường tìm kiếm sự dẫn dắt và lẽ thật của Đức Chúa Trời như nó có quan hệ với bất cứ một nan đề đặc biệt nào. Họ đã sống trong thời Cựu Ước (cùng với Kinh thánh Cựu Ước) những gì là kinh điển trọn vẹn và cầu nguyện rất cần cho chúng ta ngày nay (đối chiếu Gia-cơ 1:5 cầu nguyện, 1:16 Ngôi Lời).
Trong câu 11b chúng ta thấy sự tiếp trợ giàu ơn của Đức Chúa Trời.
Điều nầy nhắc cho tôi nhớ tới lời lẽ của vị tiên tri, ông viết: “Ta sẽ nhậm lời họ trước khi kêu cầu ta; họ còn nói, ta đã nghe rồi” (Êsai 65:24). Vì vậy chúng ta đọc: “Một đầy tớ của vua Y-sơ-ra-ên thưa rằng: Ở đây có Ê-li-sê, con trai của Sa-phát, là kẻ đã hầu việc Ê-li”.
Chúng ta hãy chú ý vài việc quan trọng ở đây.
(1) Sự nhắc tới việc đổ nước trên tay của Êli không những xem Êlisê là người đóng thay vị đại tiên tri, nhưng nó cũng kéo sự chú ý của chúng ta vào nguyên tắc ở Luca 16:10: “Ai trung tín trong việc rất nhỏ, cũng trung tín trong việc lớn;…”. Êlisê đã trung tín trong những chi tiết nhỏ khi phục sự Êli trong vai trò một tôi tớ và giờ đây Đức Chúa Trời sẽ sử dụng ông với các vì vua. Điều nầy và sự thực ông là tôi tớ/học trò của Êli, rõ ràng làm cho ông đủ tư cách cho tình huống nầy. Vì vậy, điều nầy bày tỏ ra tư chất tôi tớ của vị tiên tri. Vì Êlisê lo làm công việc của Chúa và sống trung tín với sự kêu gọi của mình, ông đã sẵn sàng ra đi và phục sự cho các vị vua nầy trong nhu cần tuyệt vọng của họ.
(2) Những gì tiên tri Êlisê đã làm ở đây – bảy ngày hành trình trong đồng vắng? Há điều nầy không chỉ cho chúng ta thấy sự khôn ngoan tuyệt đối của Đức Chúa Trời sao? Con người tính toán, lên kế hoạch nhưng chính Chúa mới là Đấng sửa soạn và thiết dựng các bước chân của chúng ta. Điều nầy dạy cho chúng ta thấy rằng Đức Giêhôva đang tiếp trợ; đắc thắng nơi chiến trận luôn luôn thuộc về Ngài. Đức Giêhôva đã sửa soạn và dẫn dắt Êlisê lên tới địa điểm nầy trong vai trò tôi tớ của Ngài  để hữu dụng cho các vị vua nầy trong thì giờ có cần của họ.
(3) Trách nhiệm của chúng ta là luôn luôn tìm kiếm và cầu hỏi Chúa của chúng ta là Đấng sửa soạn một con đường thoát hay giải cứu. Điều nầy là thực tuyệt vời một cách tuyệt đối.
Trong câu 12 chúng ta thấy đáp ứng thứ hai của vua Giôsaphát trước sự hiện diện của tiên tri Êlisê.
“Lời phán của Đức Giê-hô-va vốn ở nơi người”. Danh tiếng của tiên tri Êlisê đã đi trước mặt ông. Giôsaphát vốn biết rõ Êlisê là một nhân vật gắn bó với Đức Giêhôva và có thể ban ra Lời của Đức Chúa Trời, tức là lẽ thật. Nhà vua biết rõ rằng Êlisê là một nhân vật vốn sống chung với dân sự và thành thực cầu hỏi Đức Chúa Trời vì ích cho họ, nhưng luôn luôn có những người rao giảng những gì dân sự muốn nghe – những việc  làm kích thích sự tưởng tượng hay tính tò mò hoặc thú tiêu khiển của họ, nhưng họ lại thất bại khi thành thực đối mặt với dân chúng với lẽ thật của Đức Chúa Trời, đặc biệt khi sự việc có quan hệ tới các trách nhiệm của họ là dân sự của Đức Chúa Trời (đối chiếu II Sử ký 18:1-17; II Timôthê 4:1-4).
II Ti-mô-thê 4:1-5 “Ta ở trước mặt Đức Chúa Trời và trước mặt Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng sẽ đoán xét kẻ sống và kẻ chết, nhân sự đến của Ngài và nước Ngài mà răn bảo con rằng: hãy giảng đạo, cố khuyên, bất luận gặp thời hay không gặp thời, hãy đem lòng rất nhịn nhục mà bẻ trách, nài khuyên, sửa trị, cứ dạy dỗ chẳng thôi. Vì sẽ có một thời kia, người ta không chịu nghe đạo lành; nhưng vì họ ham nghe những lời êm tai, theo tư dục mà nhóm họp các giáo sư xung quanh mình, bịt tai không nghe lẽ thật, mà xây hướng về chuyện huyễn. Nhưng con, phải có tiết độ trong mọi sự, hãy chịu cực khổ, làm việc của người giảng Tin Lành, mọi phận sự về chức vụ con phải làm cho đầy đủ”.
‘. . . Quí Mục sư dần dần thối lui và mất đi phúc lợi khi thay đổi nhân sự trong Hội thánh. Một sự âm mưu không tốtphát sinh giữa xác thịt của họ và rồi trong hội chúng của họ. Điều nầy thật dễ hiểu khi thành viên của hội chúng sẽ dành cho quí Mục sư vinh dự đặc biệt khi luyện tập các ân tứ của họ, nếu quí Mục sư đồng ý rời khỏi hội chúng của họ’ -- những phong cách tiền Cơ đốc không bị quấy rối và không kêu gọi động viên đặt các ân tứ vào công việc của Nước Trời. Quí Mục sư được phép trở thành những siêu sao chuyên phục vụ. Tính kiêu ngạo của họ được trưởng dưỡng và hội chúng của họ được phép giữ lấy bầy chiên trong đó mỗi con chiên đều đi theo đường lối riêng của mình.
Nhưng trong ao ước của vua Giôsaphát, ông muốn nghe từ vị tiên tri của Đức Giêhôva (câu 11), chúng ta thấy một thái độ thật tuyệt vời dành cho bất cứ người nào, nhưng đặc biệt dành cho một vì vua hay cấp lãnh đạo. Há điều nầy không phải là điều mà xứ sở chúng ta đang cần có với sự tuyệt vọng hôm nay sao? Chúng ta cần người nào muốn có câu trả lời và sự lèo lái của Đức Chúa Trời và là người có cả hai thứ: nghiên cứu Kinh thánh của họ và lắng nghe những sứ giả trung tín của Ngôi Lời để có được sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời; chúng ta cần người nào nhận biết rằng câu trả lời cho mọi nan đề của chúng ta (lớn hay nhỏ) đều nằm trong Lời của Đức Giêhôva. Nhưng chúng ta cũng cần những người dù được lòng người hay không, với sự trung tín công bố ra lẽ thật của Kinh thánh.
Mặc dù tất cả binh đội và sự giàu có của họ, các vị vua nầy với quyền lực, cơ bắp, và chiến lược quân sự đã rơi vào chỗ hư không rồi sau cùng phải quay sang vị tiên tri (một người không có tiền bạc, quyền lực hay địa vị) hầu cho họ có thể tìm được câu trả lời của Đức Chúa Trời. Hãy đọc II Sử ký 20:1-30, câu chuyện nói tới các hành động của Giôsaphát khi đối mặt với một đám quân khổng lồ đến nghịch cùng xứ Giuđa. Những kết quả rất quan trọng. Câu 30 chép: “Vậy, nước của Giô-sa-phát được hòa bình, vì Đức Chúa Trời người ban cho người sự an nghỉ bốn bên(phần nhấn mạnh là của tôi), nhưng chưa được cho tới chừng Giôsaphát xây lại với Đức Giêhôva và tìm kiếm sự giúp đỡ của Ngài bằng cách công bố ra những nguyên tắc và các lời hứa của Ngôi Lời (xem câu 6).
Thật tuyệt vời, Êlisê vốn chẳng biết tới sự năng nổ hay tư cách sắc sảo hoặc khẩu tài của ông, mà chỉ biết tới hai đặc điểm quan trọng đã đánh dấu ông là người của Đức Chúa Trời. Ông được mọi người nhìn biết là một tôi tớ, là một người đổ nước ra trên hai bàn tay của Êli (đối chiếu Mác 10:45), và là một nhân vật rất trung tín công bố Lời của Đức Giêhôva, “Lời phán của Đức Giê-hô-va vốn ở nơi người”
Không may, thường thì người ta nhìn vào những việc sai trái nơi cấp lãnh đạo thuộc linh – dáng dấp, giọng nói, tư cách, tài khéo – quí vị ghi thêm đi. Không một điều nào trong các điều nầy bản thân chúng là sai cả; thực vậy, chúng là các ân tứ của Đức Chúa Trời, nhưng chúng có thể bị lạm dụng. Chúng có thể được sử dụng đến nỗi chúng kêu gọi sự chú ý vào sứ giả và dân sự thích chiều vào sứ giả hơn là chiều theo sứ điệp. Đức Chúa Trời muốn chúng ta, là những cái bình bằng đất, phải trở thành những cánh cửa để cho dân sự nhìn qua, họ sẽ thấy sứ điệp, là Chúa Jêsus. Nhưng thường thì chúng ta nhìn thấy những người nam người nữ đang sử dụng các ân tứ của họ hầu cho họ trở thành một tấm gương bẩn hay các cánh cửa dơ dáy. Dù là cách nào, nó lôi cuốn và ngăn trở tầm nhìn rõ ràng về Chúa. Cái điều tôi thấy, ấy là Phao-lô đã hạ thấp các ân tứ và khả năng của chính mình hầu bảo hộ chống lại mối nguy hiểm nầy.
I Cô-rinh-tô 2:1-5: “Hỡi anh em, về phần tôi, khi tôi đến cùng anh em, chẳng dùng lời cao xa hay là khôn sáng mà rao giảng cho anh em biết chứng cớ của Đức Chúa Trời. Vì tôi đã đoán định rằng ở giữa anh em, tôi chẳng biết sự gì khác ngoài Đức Chúa Jêsus Christ, và Đức Chúa Jêsus Christ bị đóng đinh trên cây thập tự. Chính tôi đã ở giữa anh em, bộ yếu đuối, sợ hãi, run rẩy lắm. Lời nói và sự giảng của tôi chẳng phải bằng bài diễn thuyết khéo léo của sự khôn ngoan, nhưng tại sự tỏ ra Thánh Linh và quyền phép; hầu cho anh em chớ lập đức tin mình trên sự khôn ngoan loài người, bèn là trên quyền phép Đức Chúa Trời”.


***



Bài 4: II Các Vua 2:23-25: "ÊLISÊ VÀ HAI CON GẤU"


Bài 4.
Êlisê và hai con gấu
(II Các Vua 2.23-25)
PHẦN GIỚI THIỆU:
“Từ đó, Ê-li-sê đi lên Bê-tên. Đang đi dọc đường, có những trẻ con trai ở thành ra nhạo báng người, mà rằng: Ớ lão trọc, hãy lên! Ớ lão trọc, hãy lên! Người xây lại ngó chúng nó, và nhân danh Đức Giê-hô-va mà rủa sả chúng nó. Liền có hai con gấu cái ra khỏi rừng, cấu xé bốn mươi hai đứa trong bọn chúng nó. Từ đó Ê-li-sê đi đến núi Cạt-mên; đoạn từ nơi ấy người trở về Sa-ma-ri” (II Các Vua 2.23-25).
Sự cố được mô tả trong hai câu nầy dường như rất kinh tởm đối với nhiều người và hoàn toàn không phù hợp với tư cách của Êlisê, một người vốn ổn định và cá biệt hơn Êli. Như Krummacher lưu ý: “Một sự báo thù vụt lên trên những đứa trai trẻ nghịch ngợm; một sự rủa sả được công bố ra đối với chúng nhơn danh Đức Giêhôva! Đây là đặc điểm của chế độ thiên về với luật pháp! Nhưng trái ngược dường bao khi chúng ta nói tới cá tánh và ơn kêu gọi của Êlisê, là một sứ giả của tình yêu thương và rất tử tế của Đức Chúa Trời và Cứu Chúa chúng ta”.
Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng Lời của Đức Chúa Trời, là Lời rất sống động và tích cực, cũng là ống dẫn chắc chắn mà Thánh Linh Đức Chúa Trời sử dụng để đem con người ra khỏi bóng tối tăm đến với đức tin nơi Đức Chúa Jêsus Christ và làm thay đổi họ bằng cách khiến họ ra giống như Con của Ngài. Khi ánh sáng rọi vào bóng tối tăm của thế gian nầy, nó bày tỏ ra tội lỗi của con người, nhưng con người ưa thích sự tối tăm vì nó che giấu mọi việc ác của họ. Con người ghét sự sáng vì chính lý do đó; nó tỏ ra những việc ác của người (đối chiếu Giăng 3.19-21). Đây là những việc làm do dốt nát, do hờ hững, hay do nhiều lần loạn nghịch hay do một sự thoả hiệp, nhưng bất chấp, nó thường kết quả trong việc thù ghét sự sáng, thái độ thù ghét nầy được tỏ ra không bằng cách nầy cũng bằng cách khác.
Tin lành, là những gì được chứa trong Lời của Đức Chúa Trời, là quyền phép của Đức Chúa Trời để cứu những kẻ tin. Tất nhiên là Satan, kẻ nắm giữ con người trong vòng nô lệ cho đến chết, hắn cũng chẳng muốn người ta được cứu, cũng không cho người ta kinh nghiệm quyền phép của một đời sống được Đấng Christ thay đổi bởi quyền phép của Thánh Linh. Vì lý do nầy, là kẻ thù nghịch, Satan rất là bận rộn khi Lời Đức Chúa Trời bắt đầu được công bố ra và được dạy dỗ. Hắn thù ghét Ngôi Lời và dân sự của Ngôi Lời, đặc biệt những người dấn thân vào sự công bố Tin lành nầy. Họ trở thành mục tiêu cho những cuộc tấn công của hắn với bất cứ hình thức nào mà hắn có thể tập trung được.
Vì lẽ đó, Kinh Thánh dạy quí Giáo sĩ, Mục sư, giáo sư, và các tín hữu khác đã dấn thân vào việc rao giảng Ngôi Lời đều có thể trông mong sự chống đối. Sự chống đối ấy có trong địa bàn của họ. Đây là bằng chứng rõ ràng trong phân đoạn Kinh Thánh ngắn ở trước mặt chúng ta. Thực vậy, đây là một trong những bài học chìa khoá của mấy câu nầy. Điều nầy là thực đối với Môise, Êli, và với hết thảy các vị tiên tri. Chúng ta có thể trông mong cuộc tấn công từ thế gian đang nằm dưới quyền điều khiển của Satan. Nhưng rất đáng buồn khi cuộc tấn công đến từ chính dân sự của Đức Chúa Trời, có phải không? Mỉa mai thay, Satan có khả năng sử dụng chính tuyển dân của Đức Chúa Trời để làm ngăn trở Ngôi Lời, như hắn đã làm với con cái Israel trong nhiều trường hợp.
Chúa chúng ta phán:Hỡi Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem, ngươi giết các đấng tiên tri và ném đá những kẻ chịu sai đến cùng ngươi (Mathiơ 23.37). Không phải hết thảy người Israel đều là người Israel thuộc linh thật đâu, mà sự thực vẫn là sự thực đấy thôi. Satan thường có khả năng thiết lập một công sự giữa vòng các thánh đồ.
Êlisê đi lên Bêtên (2.23a)
“Từ đó” hay “ngay sau đó”. Theo sau chức vụ ở Giêricô,  Êlisê là một người của Đức Chúa Trời dưới sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời và với Lời của Đức Chúa Trời di chuyển qua xứ để phục vụ cho dân sự. Họ là một dân đang sống trong sự thờ lạy hình tượng và gần như chẳng cần gì tới Ngôi Lời.
“Bêtên” có nghĩa là “nhà của Đức Chúa Trời” hay “địa điểm của Đức Chúa Trời”. Danh xưng nầy nói tới sự thờ phượng và mối giao thông với Đức Chúa Trời. Cũng có một trường dạy các tiên tri ở Bêtên, nhưng dù lúc nầy thành phố đã rơi vào chỗ thờ lạy hình tượng và bất cứ điều chi khác nhưng vẫn là một trung tâm thờ phượng. Ôsê là người đến phục sự sau Êlisê, đã gọi thành phố nầy là Bethaven [Bết-a-ven] “nhà của sự gian ác”, nhà của sự xấu hổ (đối chiếu Ôsê 4.15; 5.8; 10.5). Ôsê cũng đã gọi thành phố nầy như thế vì  sự thờ lạy hình tượng mà Giêrôbôam đã thiết lập để tác động một sự phân rẽ hoàn toàn giữa Israel và Giu-đa. Xuất phát từ lòng tham lam quyền lực và nỗi sợ hãi của ông ta, e rằng dân Israel sẽ trở lên Jerusalem đặng thờ phượng, ông ta đã thiết lập hai địa điểm thờ phượng mới ở phía Bắc với những con bò con vàng làm biểu tượng cho sự thờ phượng: một ở Bêtên và một ở Đan. Tất nhiên, đây là một sự bất tuân hoàn toàn đối với những huấn thị trong kinh Cựu ước.
Bethel [Bêtên] gồm Beth có nghĩa là “nhà”elcó nghĩa là Đức Chúa Trời. “A-ven” là chữ Hy bá lai awen có nghĩa là “rắc rối, buồn rầu, thờ lạy hình tượng, gian ác và hư vô”. Chữ awen dường như có hai mặt chính cho ý nghĩa của nó: (a) chữ nầy chỉ ra tình trạng bất công gây ra buồn rầu, tai vạ và thất bại (Châm ngôn 22.8); (b) Nhưng chữ ấy còn chỉ ra một tình trạng hư vô hướng tới sự thờ lạy hình tượng như một phương tiện của con người muốn làm đầy dẫy sự trống không. Mục đích, khi con người thấy trống vắng về Đức Chúa Trời và Lời của Ngài, họ sẽ làm đầy dẫy đời sống của họ với những việc hư không dù là vật chất hay triết lý. Điều nầy dẫn tới sự thờ lạy hình tượng, thờ lạy hình tượng dẫn tới sự bất công, sự bất công dẫn tới tai vạ.
Bêtên cần tới Ngôi Lời để chỉ cho họ thấy tội lỗi và đem họ về lại với Đức Giêhôva. Đây là hy vọng duy nhứt của họ và Satan đã năng động muốn ngăn chặn nó. Êlisê quả là có khả năng phục vụ cho các nhu cần của những người ở đó (dân sót), nhưng thành phố như một tổng thể chưa hề thực sự xây lại với Chúa và Lời của Ngài. Satan đã đào hào chung quanh đó rồi. Đây là sự thực khác đôi khi chúng ta phải đối diện với. Và khi đây là trường hợp chúng ta chỉ cần phải chuyển đi giống như Êlisê đã chuyển đi, cũng như Phao-lô và nhiều người khác nữa.
“Đang đi dọc đường. . .” kêu gọi sự chú ý của chúng ta đến thời điểm của cuộc tấn công. Sự việc đã xảy ra trong quá trình bình thường khi ông trên đường đến thành phố. Chúng ta không hề biết (dù Đức Giêhôva biết) khi nào Satan hay những kẻ khác dưới quyền điều khiển hay ảnh hưởng của hắn, sắp sửa tấn công. Đúng ngay khi chúng ta nghĩ các áp lực sẽ vơi dần, và nhiều việc sẽ khá hơn lên – khi ấy cuộc tấn công gia tăng cường độ. Đây là lý do tại sao chúng ta phải luôn luôn, mặc dù mọi việc trông dường như ổn lắm, hãy coi chừng kẻo ngã (I Côrinhtô 10.12); tại sao chính mình phải giữ, e cũng bị dỗ dành chăng!?! (Gal 6.1); và tại sao chúng ta phải cẩn thận trong cách ăn ở mình (Êphêsô 5.15) vì chúng ta đang sống trong một thế giới gian ác và Satan đang đi rình mò. Hắn đang tranh chiến nghịch lại các thánh đồ.
Êlisê bị chế giễu (2.23b)
“Có những trẻ con trai”. Bản Kinh Thánh KJV dịch “bầy trẻ nhỏ” thực sự thiếu ý nghĩa ở đây. Những kẻ nầy không phải là trẻ con, mà là những thanh thiếu niên. Từ ngữ “trẻ” là từ Hy bá lai naar được sử dụng để nói tới hàng tôi tớ, binh lính hay nói tới Y-sác khi ông đã được 28 tuổi. Đây là một đám đông những thanh niên, có lẽ là số học trò của những tiên tri giả, chúng có mặt ở đây như những kẻ đối kháng với chức vụ và uy quyền tiên tri của Êlisê. Nếu không phải là những học trò, chúng đã được số tiên tri giả hay các thầy tế lễ cho hình tượng ở Bêtên sai đến để ngăn chận Êlisê không vào thành phố. Đối mặt với Êlisê, Satan có một đạo quân và hắn đang hành động để bảo hộ lãnh địa của mình. Tuy nhiên, hãy nhớ là Êlisê sẽ vào Bêtên không phải để rủa sả, mà là để chúc phước cho.
“Ở thành ra nhạo báng người . . . Ở lão trọc, hãy lên”. “Nhạo báng” là chữ Hy bá lai galas và chỉ rõ một sự chế nhạo làm giảm uy tín một vật gì hay một người nào đó, nó xuất phát từ một thái độ bị coi là vô giá trị, song thực sự lại có giá trị rất lớn.
Các cấp lãnh đạo luôn luôn phải xử lý với sự bất kính. Điều nầy được thấy có trong Cựu ước và cũng được thấy có trong Tân ước nữa. Nhưng sự bất kính lớn lao nhất ở đây nằm trong mối quan hệ với Đức Chúa Trời. Những trẻ con trai nầy, không nghi ngờ chi nữa đang ở dưới ảnh hưởng của Satan, chúng tấn công không những Êlisê, là con người, mà chúng còn tấn công sứ điệp của ông nữa. Nhưng vấn đề là, bất chấp nhân cách của con người, dáng dấp bề ngoài của ông, hay thậm chí những thiếu sót nơi ông, Êlisê là người của Đức Chúa Trời với sứ điệp của Đức Chúa Trời. Kết quả là, theo phần phân tích sau cùng, chúng đang nhạo báng hay đang chối bỏ Đức Chúa Trời và những gì Ngài đang nổ lực để làm qua Êlisê trong vai trò phát ngôn viên của Đức Chúa Trời. Êlisê chỉ là một công cụ của Đức Chúa Trời mà thôi (đối chiếu I Têsalônica 5.12, 13 “công khó”). Công khó được đề cập tới trong I Têsalônica là công việc của Đức Chúa Trời – công tác gây dựng nhân sự bằng Ngôi Lời và trong Đấng Christ qua những người nầy. Và có một nhận định trong đó áp dụng cho tất cả các tín đồ.
Cuộc tấn công của những trẻ con trai nầy có hai phần.
(1) “Hãy lên”… “hãy lên”. Nghĩa là, hãy thăng thiên giống như ngươi nói Êli đã thăng thiên. Sự chuyển Êli đi là một phép lạ của Đức Chúa Trời và minh hoạ cho lẽ thật và hy vọng theo Kinh Thánh nói tới sự chuyển các thánh đồ đi. Mặc dù các thánh đồ trong Cựu ước không hiểu rõ điều nầy, đây vẫn là một kiểu cách của lẽ thật nầy. Êlisê là một vị tiên tri của Đức Chúa Trời và bởi việc làm nầy, những trẻ con trai kia đang chối bỏ công việc của Đức Chúa Trời, chúng đang chối bỏ Lời của Đức Chúa Trời và các hành động của Đức Chúa Trời trong lịch sử.
(2) Phương diện thứ hai của cuộc tấn công được thấy trong cách nói: “Ớ lão trọc”. Trong trường hợp Êlisê có trọc đầu, hay trong trường hợp ông có một kiểu tóc rất khác biệt, nghĩa là hớt cua đi nữa, chúng đang chế nhạo vị tiên tri và chúng đang bảo ông hãy hư mất đi giống như tiên tri Êli vậy. Krummacher viết:
“Trọc đầu bị những tu sĩ hạng thấp xem là một loại mất ơn; vì nó giống như một trong những hậu quả thông thường của bịnh phung, cho nên nó bị kể là một dấu hiệu thoái hoá về nhân cách và về trí khôn. Cho nên, khi sử dụng lối nói ngông cuồng nầy, những trẻ con trai kia đã có một chủ định rất hiểm ác. Cách ăn nói của chúng không nên xem là một sự bộc lộ đùa giỡn của tuổi thanh niên; mà là những mũi tên có tẩm độc, từ bản tánh hiểm ác của Satan chúng được bắn thẳng ra. Giống như thể chúng đang nói: “Hỡi gã phung đồng tính kia! Ngươi mà là tiên tri sao! Chúng ta không sợ ngươi đâu! Hãy lên! Hãy lên!” giống như thể chúng đang nói: “Hãy bắt chước thầy của người đi!” . . . Cách nói nầy dường như ám chỉ bóng gió với sự chế nhạo đến sự thăng thiên của tiên tri Êli; một phần chế nhạo, một phần giễu cợt Êlisê…”
Những cuộc tấn công nầy là khuôn mẫu của những kế hoạch và phương pháp bởi đó Satan tìm cách làm vô hiệu chức vụ của các thánh đồ và công việc của Đức Chúa Trời. Hắn tấn công sứ điệp (Ngôi Lời) và sứ giả hay cả hai. Hắn tìm cách gây ngã lòng hay làm mất uy tín vị giáo sư hoặc hắn tấn công những người đang lắng nghe sứ điệp. Đối với sứ giả, Satan tìm cách gây chú ý vào những vấn đề nhỏ nhặt, cảnh ngộ, hiểu lầm, hay tập trung vào nhân cách hoặc dáng dấp bề ngoài. Dầu là điều gì, miễn sao đó là phương tiện cho một công sự, từ đó hắn tìm cách mở hết cuộc tấn công nầy đến cuộc tấn công khác để làm cho mắt người ta không nhìn vào Chúa và lỗ tai của họ đóng lại đối với Lời của Ngài. Chúng ta phải cẩn thận để chúng ta không cộng tác với Satan mà ném xăng vào các ngọn lửa của hắn.
Việc quan trọng ở đây là phản ứng của Êlisê đối với điều nầy và hành động đáp ứng của Đức Chúa Trời. Điều nầy đã được ấn định để nhấn mạnh cho chúng ta mức độ trầm trọng của các vấn đề ở đây.
Êlisê rủa sả những trẻ con trai (2.24a)
Điều nầy dường như tàn nhẫn quá, nhưng Đức Chúa Trời và các cấp lãnh đạo của Ngài đã hành động theo cách tàn nhẫn để làm cho người ta biết mức độ quan trọng của sự sống và Lời của Đức Chúa Trời trên con người. Anania và Saphira là một minh hoạ về điều nầy trong Tân ước.
(1) Những gì Êlisê không làm. Trước khi xem xét những gì Êlisê đã làm, chúng ta hãy xem xét trong một phút những gì ông đã không làm! (a) Ông không xây lại mà bỏ chạy. (b) Ông không tranh luận với chúng hay rượt đuổi chúng (Mathiơ 7.6). (c) Ông không đem sứ điệp ra mà thoả hiệp. (d) Ông không hành động hay phản ứng xuất phát từ tánh ích kỷ hay lo sợ hoặc tự bảo hộ từ quan điểm cái tôi hay tánh kiêu ngạo của mình. (e) Ông không than phiền với Chúa hay ngã lòng. (f) Ông không đếm xỉa gì tới lời nói, hành động, và các thái độ của chúng. Đáp ứng của Đức Chúa Trời minh chứng cho điều nầy.
Sự việc nầy dạy dỗ chúng ta điều chi? Khi rắc rối xảy đến, chúng ta đừng bao giờ viện đến những giải pháp của thế gian, nghĩa là, lối thoát theo quan điểm của con người hay bảo vệ những đấu pháp (đối chiếu Thi thiên 143.11-12; 147.10-11).
(2) Những gì Êlisê đã làm. Êlisê cầm lấy khí giới của mình: “Ông nhân danh Đức Giêhôva mà rủa sả chúng nó”. Đây không phải là sự rủa sả để rủa sả hay mắng nhiếc để mà mắng nhiếc đâu (I Phierơ 2.23). Ông đang tin cậy Chúa và để vấn đề lại trong tay của Đức Chúa Trời. Chìa khoá ở đây nằm trong chữ “rủa sả”. Đây không phải là thề thốt với những lời lẽ độc dữ đâu. Đây là từ ngữ Hy bá lai galal có nghĩa là “qua loa, sơ sài, vặt vảnh, hay chuyện nhỏ”. Ý nghĩa chính là đây: “Không sao mà, hay chuyện vặt”. Cả hai hình thức động từ và danh từ dường như chỉ ra một thể thức bày tỏ một sự ra khỏi hay làm cho yếu đi chốn phước hạnh.
Rủa sả đứng đối ngược với từ ngữ phước hạnh hay ưu đãi (đối chiếu Sáng thế ký 27.11, 12). Phần nhấn mạnh đặt trên sự thiếu mất, hay đảo ngược một tình trạng phước hạnh hoặc địa vị xứng đáng đem lại sự bảo hộ, sự tiếp trợ và ơn phước của  Đức Chúa Trời. Nguyên tắc thật là đơn giãn: không có sự cứu rỗi và sự bảo hộ phước hạnh của Đức Chúa Trời hết thảy chúng ta đều bị rủa sả. Giờ phút Đức Chúa Trời dời đi bức tường bảo hộ của Ngài ra khỏi Gióp, Satan đã tấn công và gây tàn phá đời sống của Gióp.
Vì vậy Êlisê, là một vị tiên tri, đã nhìn thấy tình trạng chai lì và loạn nghịch của chúng, ông không phản ứng để sửa trị. Trong danh của Đức Giêhôva (nghĩa là, bởi uy quyền của Ngài) Êlisê chỉ xây chúng qua Đức Giêhôva và qua những tật xấu của chúng, những điều có tác dụng dời chúng ra khỏi thậm chí sự bảo hộ của Đức Chúa Trời. Có lẽ ông đã nói một câu đại loại như thế nầy: “Nguyện Đức Chúa Trời xử các ngươi theo điều các ngươi đáng phải chịu” hay “nguyện các ngươi bị rủa sả vì những tội lỗi loạn nghịch của các ngươi”. Điều nầy sẽ chứng tỏ cho thành phố và cho dân sự ở chung quanh nhìn thấy một lẽ thật quan trọng: không có Đức Chúa Trời không có một sự bảo hộ nào và sự phạm thượng đối với tôi tớ của Đức Chúa Trời và Lời của Ngài hòng ngăn trở sứ điệp của Đức Chúa Trời là việc rất nghiêm trọng. Hãy chú ý là Êlisê không kêu gọi mấy con gấu, Đức Chúa Trời đã gọi chúng đến. Hai con gấu cái (chớ không phải ba con – gấu cha, gấu mẹ, và gấu con) đã xuất hiện và đã cấu xé bốn mươi hai người trẻ con trai đó.
Quí vị nghĩ việc nầy sẽ đưa sự kính sợ Đức Giêhôva vào tấm lòng của cả khu vực trong nhiều năm hầu đến. Nhưng không – tấm lòng của con người vẫn cứ như thế, họ bất chấp, họ chối bỏ, hay không bao lâu sau đó họ quên sự việc ấy rồi.
PHẦN KẾT LUẬN
Đức Chúa Trời không xem nhẹ sự việc khi chúng ta bất chấp Lời của Ngài hay ngăn trở công cuộc truyền bá Lời ấy trong thế gian giữa vòng dân sự Ngài. Đây là vấn đề rất nghiêm trọng (đối chiếu I Côrinhtô 3.16-17 với 10; 11.30).
Là tín đồ, chúng ta phải trông mong sự chống đối. Chúng ta càng đi ra vì Chúa, chúng ta càng đối diện với nhiều cuộc tấn công từ phía kẻ thù qua nhiều thủ đoạn khác nhau của hắn (đối chiếu I Phierơ 4.10-12). Như Phao-lô đã nói trong II Timôthê 3.12: Vả lại, hết thảy mọi người muốn sống cách nhân đức trong Đức Chúa Jêsus Christ, thì sẽ bị bắt bớ.
Chúng ta cần có nhiều Êlisê, những người sẽ đứng vững và hành động trong chiều hướng theo Kinh Thánh để lại nhiều kết quả cho Chúa. Đây là những gì Phao-lô đã làm khi nối kết với sự phê phán mạnh mẽ thường nhắm vào ông bởi một số người tại thành Côrinhtô (đối chiếu I Côrinhtô 4.1…). Giống như Êlisê và Phao-lô, chúng ta cần phải tiến tới trước với chức vụ của mình trong khi luôn tin cậy Đức Chúa Trời mở ra một con đường và dời đi những ngăn trở.

***



Bài 3: II Các Vua 2:18-22: "CÁC NGUỒN NƯỚC CỦA GIÊRICÔ ĐƯỢC LÀM CHO SẠCH"


Bài 3:
Các nguồn nước của Giêricô
 được làm cho sạch
(II Các Vua 2:18-22)
PHẦN GIỚI THIỆU:
Khi viết nghịch lại thành Jerusalem và xứ Giuđa, Êsai đã mô tả xứ sở bằng những từ ngữ chỉ ra các tình trạng bịnh hoạn của đất nước chúng ta và thế giới ngày nay. Ông viết:
Êsai 1.4-6: “Ôi! nước mắc tội, dân mang lỗi nặng nề, tông giống độc dữ, con cái làm bậy bạ kia! Chúng nó đã lìa bỏ Đức Giê-hô-va, khinh lờn Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, đã trở nên xa lạ và lui đi. Các ngươi sao còn cứ bạn nghịch, để lại bị đánh nữa? Đầu đều đau đớn cả, lòng đều mòn mỏi cả. Từ bàn chơn cho đến đỉnh đầu, chẳng có chỗ nào lành: rặt những vết thương, vít sưng cùng lằn mới, chưa rịt, chưa quấn, cũng chưa bôi dầu cho êm”.
Chúng ta cũng đang sinh sống trong một xã hội bịnh hoạn và một thế giới bị rủa sả. Sự trơ trụi gây ra bởi những dòng tử hà thuộc linh và tình trạng mù loà tâm trí của con người đang tuôn chảy khắp xã hội là bằng chứng rõ ràng trong bầu không khí chính trị, tôn giáo và đạo đức trong thời của chúng ta. Tuy nhiên, tình trạng nầy không hiển nhiên, công khai trước mắt mọi người đâu. Vì có nhiều thứ được coi là dễ chịu, thoải mái có tính cách dối gạt, chúng quyến rũ xã hội và thế giới của chúng ta, đặc biệt trong xứ sở của chúng ta. Chạy theo chủ nghĩa duy vật, người ta chỉ nhắm vào việc làm giàu. Có nhiều thắng cảnh hùng vĩ, những toà nhà nguy nga, nhiều siêu siêu thị dành cho người tiêu dùng, những tiện nghi học tập, các thứ tiện dụng được sản xuất để làm cho cuộc sống ra dễ dàng hơn, các tổ chức và cấu trúc tôn giáo giàu có, và bảng danh sách hãy còn dài.
Ở giữa mọi sự nầy cấp độ đau khổ lúc nào cũng ở trên đỉnh cao. Sự trơ trụi thuộc linh, giống như một cái bóng khỗng lồ phủ dài trên đất nước của chúng ta. Bất luận con người ra sức khó nhọc dường nào, họ đang hướng vào những nguồn không đúng để tìm kiếm hạnh phúc – xứ sở hãy còn trơ trụi. Những dòng sông tưới đất thì rất độc hại. Xứ sở đã bị rủa sả.
Jerry Falwell trong tạp chí Fundamental Journal (tháng 7/tháng 8), đã viết rằng Bộ trưởng Nội vụ James Watt mới đây đã nói rằng Bài Quốc Ca của chúng ta là bài hát duy nhất trên thế giới kết thúc bằng một câu hỏi: “Phải chăng lá cờ nhiều ngôi sao đang vẫy trên đất nước tự do và trên quê hương của người dũng cảm? (Does that star-spangled Banner yet wave o’er the land of the free and the home of the brave?”) Falwell tiếp tục nói, bài hát ấy nhắc cho chúng ta nhớ tới bản chất tự do mong manh và góp phần như một lời cảnh cáo rằng sự tự do đã đạt được bằng một giá cao có thể bị đánh mất một cách dễ dàng. Bài học quan trọng: ấy là các nước, bất luận được phước như thế nào, có thể thoái hoá dễ dàng và phải hứng chịu nề nếp kỷ luật thiêng liêng của Đức Chúa Trời. Kinh Thánh chép: “Nước nào có Giê-hô-va làm Đức Chúa Trời mình, dân tộc nào được Ngài chọn làm cơ nghiệp mình có phước thay!” (Thi thiên 33.12). Nhưng nước nào không lấy Giêhôva làm Đức Chúa Trời của mình thì cũng bị rủa sả tương đương, đây là sự thật (nghĩa là, thần của họ là chủ nghĩa vật chất, hay hình thức bảo vệ người tiêu dùng, hoặc chủ nghĩa nhân đạo, hay chủ nghĩa cộng sản, hoặc bất kỳ một hình tượng nào khác).
Phân đoạn Kinh Thánh của chúng ta cho bài học nầy đang nhắc cho chúng ta nhớ tới lẽ thật đó, nhưng đáng trân trọng thay, phân đoạn ấy cũng chỉ ra cho chúng ta thấy giải pháp của Đức Chúa Trời cùng mọi trách nhiệm của chúng ta trong vai trò người tin Chúa, đang sinh sống ở đây làm khâm sai để rao giảng Chúa ra, Ngài là Đấng Tạo Hoá Vĩ Đại, và là Đức Chúa Trời của cả đất.
Phân đoạn lịch sử nầy phác hoạ ra lẽ thật thuộc linh được thấy có ở khắp mọi nơi trong Kinh Thánh. Phân đoạn ấy dùng hình bóng làm chìa khoá cho ý nghĩa và cách ứng dụng cho chúng ta ngày nay. Hình thái tượng trưng được thấy trong các phần sau đây:
(1) Thành phố Giêricô (2.18-19). Thành nầy đã bị rủa sả (đối chiếu Giôsuê 6.26).
(2) Nước uống rất độc khiến cho đất không kết quả (chai) (2.19).
(3) Một cái bình mới đựng muối ở trong đặng làm sạch nguồn nước (2.20-21).
Về mặt lịch sử
“Chúng trở về, Ê-li-sê vẫn ở tại Giê-ri-cô; người bèn nói với họ rằng: Ta há chẳng bảo các ngươi chớ có đi sao? Dân cư của Giê-ri-cô nói cùng Ê-li-sê rằng: Chỗ xây cất thành này tốt lắm y như chúa tôi thấy; nhưng nước thì độc và đất thì chai. Người đáp: Hãy đem cho ta một cái bình mới, và đựng muối ở trong. Chúng đem bình đến cho người. Người bèn đi đến nguồn nước, đổ muối xuống nước, mà nói rằng: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Ta đã chữa lành cho nước này, tự nó sẽ chẳng còn gây ra sự chết, hoặc sự nân nữa. Vậy, theo lời của Ê-li-sê phán ra, nước được chữa lành còn đến ngày nay”.
Câu chuyện thì ngắn gọn và đơn sơ, tuy nhiên lẽ thật của nó thì rất thâm thúy và sâu sắc. Đây là một thành phố do Israel cai quản và trong đó có một chủng viện nhỏ (một trường đào tạo tiên tri), thế nhưng nguồn nước của thành phố lại rất xấu và gây ra tình trạng không kết quả cho đất đai. Nếu quí vị để ý, trong 2.19 dân cư thành Giêricô (đối chiếu 2.15) cho biết: “chỗ xây cất thành nầy thì tốt lắm”. Ở cái nhìn đầu tiên mọi thứ đều rất phát đạt trong thành phố. Đã có nhiều toà kiến trúc rất đẹp, cây cối, vườn tượt, và nhiều sinh hoạt – song lại chẳng có chút kết quả nào hết. Sát nghĩa, tiếng Hy bá lai nói: “đất thì trơ trụi”. Điều nầy chỉ ra rằng nguồn nước có chứa các khoáng chất lắng đọng làm ngăn trở sự lớn lên hay kết quả. Có những việc đã tấn tới, nhưng trước khi chúng kết quả, thì trái sẽ rụng xuống hoặc cây sẽ héo đi.
Có một đề nghị khác cho rằng vấn đề có quan hệ tới đời sống của con người. McNeely cho chúng ta biết John Gray nói rằng một nghiên cứu mới đây về tôn giáo cho thấy rằng các nguồn suối trong khu vực đã tiếp xúc với tầng phóng xạ. Kết các chất liệu nầy với nước đã bị ô nhiễm, nguồn nước như thế ấy sẽ gây ra tình trạng vô sinh. Cho nên nước nầy đã tạo ra tình trạng trơ trụi và tình trạng đó không dính dáng gì với việc gieo ra sự sống nhiều cho đời sống của con người.
Dân chúng đã công nhận uy quyền của Êlisê là một vị tiên tri của Đức Chúa Trời, là người đã băng ngang qua sông Giôđanh, một bằng chứng đánh dấu quyền phép của Đức Chúa Trời trong đời sống của ông. Vì vậy họ đã đến với Êlisê và yêu cầu giúp đỡ cho nan đề của họ. Êlisê khi ấy mới đòi một cái bình mới đựng muối ở trong, ném bình ấy xuống dòng nước, rồi bởi một phép lạ của Đức Chúa Trời, nguồn nước được làm sạch với những kết quả thường trực. Chắc chắn là nguồn nước nầy vẫn tốt đẹp cho đến ngày nay. Làm ơn để ý 2.21, Êlisê dành cho Đức Chúa Trời sự vinh hiển. Cho nên sự việc ấy chẳng phải do Êlisê cũng chẳng phải do muối – mà là do Đức Chúa Trời. Êlisê chỉ là một đại biểu của Đức Chúa Trời và muối là một biểu tượng.
CÁC BIỂU TƯỢNG ĐƯỢC SỬ DỤNG
Thành phố
Giêricô nguyên là một thành phố tiền đồn chống lại sự xâm chiếm xứ Canaan bởi tuyển dân của Đức Chúa Trời (hãy xem sách Giôsuê). Giêricô là một thành rất nổi bật trong sách Giôsuê. Sự huỷ diệt thành Giêricô ứng nghiệm lời hứa cho sự chiếm đóng phần còn lại của xứ sở đó. Tuy nhiên, thành phố đã bị rủa sả là ai cố gắng tái thiết lại thành phố, đặc biệt là một thành tiền đồn, sẽ mất con cái của họ (Giôsuê 6.26). Đây có thể là nan đề cho sự trơ trụi, là một sự tiếp diễn liên tục lời rủa sả nầy hết thế hệ nầy đến thế hệ khác.
Giêricô minh hoạ cho thế gian đang ở dưới sự rủa sả của Đức Chúa Trời. Đây là một lời rủa sả mà chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể chấm dứt bởi chương trình cứu rỗi của Ngài như đã được tỏ ra trong Lời của Đức Chúa Trời. Thế gian đang đứng như một sự ngăn trở, thực vậy, như một tiền đồn của Satan chống lại những người đang hưởng lấy chương trình cứu chuộc và giải cứu của Đức Chúa Trời trong Đấng Christ.
Con người và hệ thống thế gian của Satan cung hiến những thứ thay thế – triết lý của con người, các hệ thống tôn giáo, và mọi giải pháp của chủ nghĩa duy vật. Những thứ thay thế nầy có thể là dễ chịu, song các giải pháp của thế gian luôn luôn kết quả trong sự trơ trụi và là hư không  trong sự làm cho mọi lời hứa của chúng được ứng nghiệm. Có thể họ nói rất hay, có thể họ trông rất đáng thương và có thể họ sẽ làm cho xác thịt được thoả mãn trong phút chốc, thế nhưng mọi căn bịnh của con người vẫn tiếp tục trầm trọng hơn. Chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể di dời sự rủa sả đi.
Nước độc
Nước trong Kinh Thánh thường là một biểu tượng nói tới Ngôi Lời, nói tới Đức Thánh Linh là Đấng đang thanh tẩy và làm cho tươi mới, và ngay cả nói tới sự sống nữa. Nước bị độc tự nhiên chỉ ra sự ngược lại. (a) Trong chỗ của Lời Đức Chúa Trời, chúng ta có quan điểm hư không, chủ nghĩa nhân đạo, các hệ thống thờ lạy hình tượng, và những hệ tư tưởng của con người. (b) Trong chỗ của Đức Thánh Linh, có nhiều tà linh đang khuyến khích các giáo lý nầy (giáo lý nói về ma quỉ) (I Timôtthê 4; 1 Giăng 4). (c) Trong chỗ của sự thanh tẩy, sự làm tươi mới, và sự sống đang có sự nhiễm bẩn, sự yếu đuối và sự chết.
Cái bình mới
Trong Kinh Thánh, các tín đồ được minh hoạ là những chiếc bình bằng đất chứa của báu Tin Lành nói tới Đức Chúa Giêxu Christ, Đức Chúa Trời nhìn thấy đó là quyền phép cứu rỗi, chớ con người không nhìn thấy (II Côrinhtô 4.6-7). Cũng hãy lưu ý rằng Êlisê không những chỉ đòi một cái bình, mà ông còn đòi một cái bình mới nữa (câu 20), có lẽ cái bình nầy minh hoạ ra người tin Chúa, một con người mới, đã được tái sanh, một tạo vật mới của Đức Chúa Trời, người nầy là đại diện cho Chúa trong thế gian, là một khâm sai và là một thầy tế lễ của Đức Chúa Trời, là người dám công bố mọi ưu điểm của Đức Chúa Trời và ơn cứu rỗi của Ngài trong Đức Chúa Giêxu Christ cho một thế giới bị hư mất và bị rủa sả (đối chiếu  II Côrinhtô 4.4-7; 5.20, 21; I Phierơ 2.9).
Muối
Muối là biểu tượng quan trọng nhất trong mọi biểu tượng ở đây. Muốn xét qua biểu tượng nầy, chúng ta hãy nhìn vào các hành động của muối cùng cách sử dụng muối trong Kinh Thánh.
Các hành động của muối
(1) Muối có tính cách bảo tồn. Muối làm chậm lại quá trình hư hỏng và thối rửa.
(2) Muối nêm nếm, cung ứng mùi vị và làm cho thức ăn được ngon hơn.
(3) Muối khiến cho khát nước. Quí vị có thể dẫn một con ngựa xuống nước, nhưng quí vị không thể bắt nó uống nước. Có đúng không? Quí vị có thể cho nó ăn muối và rồi nó sẽ uống nước ngay.
(4) Muối làm kích thích. Quí vị có bao giờ sát muốc lên vết thương chưa?
(5) Đó là một sự chữa lành và là một tác nhân làm cho sạch. Muối làm sạch.
Về mặt lịch sử
(1) Muối là một trong những sản phẩm và hàng hoá quan trọng nhất của những thời xa xưa. Muối được xem là quan trọng cùng với rượu, dầu, là một dấu hiệu của sự thịnh vượng.
(2) Vì cớ thiếu sự đông lạnh, thịt sẽ hư ngay nếu không được ướp với muối.
(3) Muối được lấy lên từ Biển Chết và được đào lên từ các khu đầm lầy. Như vậy, đôi khi muối không được sạch và pha trộn với các chất liệu khác trong đất. Muối lấy ra từ Biển Chết thường pha trộn với thạch cao và nếu với một số lượng thích đáng, muối sẽ trở thành chất kiềm và mất đi tánh mặn của nó.
Những cách sử dụng muối trong Kinh Thánh
(1) Lêvi ký 2.13 dạy chúng ta rằng dù thế nào đi nữa, thì các thứ của lễ dâng lên phải nêm thêm muối. Không có muối, chúng sẽ không được nhậm bất luận trong sự dâng hiến có chân thành như thế nào đi nữa, bất luận của lễ là gì, và có giá trị cao, hay động lực thanh sạch như thế nào đi nữa (đối chiếu Êxêchiên 43.24). Chính muối đã làm cho sự dâng hiến hay của lễ được nhậm vì cớ muối nhắc tới giao ước của Đức Chúa Trời cứu chúng ta qua thân vị và công tác của Đấng Christ. Những giao ước trong các thời kỳ xa xưa đều được nêm muối. Giao ước của Đức Chúa Trời là cứu chúng ta ra khỏi tội lỗi và đưa chúng ta vào mối thông công với chính mình Ngài. Muối nói tới thân vị và công tác của Đức Chúa Giêxu Christ đã đổ ra vì chúng ta, Ngài là Chúa đã sống lại, cung ứng chức vụ của Đức Thánh Linh, là nguồn nước sống (Giăng 7.37-29). Vì vậy không có một của dâng nào có thể kể đến trừ phi của dâng đó là một sản phẩm của Đức Chúa Giêxu Christ trong chúng ta và được cai quản bởi Đức Thánh Linh và tình yêu của Ngài đang vận hành trong đời sống của chúng ta (đối chiếu I Côrinhtô 13.1…).
(2) Trong Mathiơ 5.13a, Đấng Christ đã phán với các môn đồ Ngài: “các ngươi là muối của đất”. Ở đây sự phân tích muối chỉ ra cái chạm mà những tín đồ cần phải có trong thế gian với vai trò khâm sai cho Đấng Christ. Phần nhấn mạnh của Kinh Thánh không phải bản thân người tin Chúa là muối đâu, mà người tín đồ, là một cái bình mới chứa đầy muối (bổn tánh của Đấng Christ), phải có ảnh hưởng của muối trên đất.
(3) Nhưng Mathiơ 5.13b cảnh cáo chúng ta rằng muối có thể mất mặn đi, nghĩa là, mất đi tính mặn của nó. Hãy nhớ, nói về mặt lịch sử, vì phương thức mà muối thường mang lại, đôi khi nó không sạch và đầy thạch cao, hay bị trộn pha với nhiều chất trong đất. Hình ảnh sẽ rất là rõ ràng. Nếu một người tin Chúa, thậm chí là một cái bình mới, đã bị nhiễm bẩn với thế gian cùng các tố chất của nó, người ấy sẽ là vô dụng với Chúa. Người ấy đã đánh mất mục đích của mình.
(4) Mác 9.50 dạy cho chúng ta biết rằng muối nơi đời sống của người tin Chúa là muối tốt; nó khiến chúng ta thành loại bình hay là những tôi tớ hữu dụng và thích đáng cho Chúa. Vì vậy chúng ta phải có vị mặn, bày tỏ ra bổn tánh của Cứu Chúa là vị mặn theo ý nghĩa của Kinh Thánh.
Vì vậy, muối trong II Các Vua 2.19-20 ám chỉ tới cái gì? Muối trong phân đoạn nầy ám chỉ tới hai việc:
(1) Vì cách sử dụng muối trong Cựu ước, ở đây có thể nói tới muối của giao ước, là thân vị của Đấng Christ trong đời sống của người tin Chúa, là Đấng ban Đức Thánh Linh ra như một sông nước hằng sống (Lêvi ký 2.13; Êxêchiên 43.24; I Các Vua  2.20, 21; Giăng 7.37-39).
(2) Lời của Đức Chúa Trời (Côlôse 4.6) nêm nếm và cung ứng mùi vị cho đời sống của người tin Chúa với bổn tánh và mục đích của Đức Chúa Trời (đối chiếu Côlôse 3.16). Thực chất, là tín đồ trong Đấng Christ, chúng ta phải đầy dẫy cả Đức Thánh Linh và Lời Chúa.
Chúng ta sẽ kết thúc với cái nhìn vào Luca 14.34-35, tiểu đoạn Kinh Thánh nầy sẽ thêm phần nhấn mạnh cho Mathiơ 5.13b:
“Muối là giống tốt; nhưng nếu muối mất mặn, thì lấy chi làm cho nó mặn lại được? Không dùng chi được cho ruộng hoặc cho phân; người ta phải bỏ nó ra ngoài. Ai có tai mà nghe, hãy nghe”.
Một lần nữa, chúng ta nhìn thấy lời cảnh cáo quan trọng nầy: không có vị mặn, muối hoàn toàn không còn hữu dụng nữa. Nó không còn tốt cho cái gì nữa, thậm chí không tốt cả cho đất như phân bón. Mục đích là, bao lâu đời sống chúng ta đầy dẫy với và bị những thứ thuộc thế gian pha trộn vào (giống như tánh yêu tiền bạc hay của cải) chúng ta không còn hữu dụng cho Chúa trong vai trò môn đồ hay những cái bình hữu dụng cho Chúa nữa (đối chiếu Luca 14.33 theo văn mạch của nó).
Các tác dụng của những cái bịnh chứa đầy muối
Nếu chúng ta chính xác trong phần phân tích, và chắc chắn phù hợp với quan niệm về cái bình bằng đất trong II Côrinhtô 4.7, muối minh hoạ cho nguyên tắc có mục đích. Là những công cụ của Đức Chúa Trời, chúng ta cần phải sống với các mục đích của Đức Chúa Trời luôn luôn trong lý trí và là mục tiêu trong đời sống chúng ta. Chúng ta không sống ở đây để làm đẹp lòng mình hay sống cho bản thân mình (đối chiếu Philíp 1.27 với 2.4-5). Khi các tín đồ sống có mục đích, với muối trong đời sống của họ, họ có những tác dụng sau đây trong việc chu toàn các mục đích của họ.
(1) Một sức mạnh bảo tồn và chữa lành trong xã hội. Sức mạnh nầy quan trọng cả hai phần: tích cực và tiêu cực.
Tiêu cực: Điểm tiêu cực nầy cho chúng ta thấy thế gian sẽ như thế nào và sẽ ra sao nếu không có tác dụng như muối của hàng tín đồ. Kinh Thánh dạy chúng ta rằng không có tác dụng như muối của hàng tín đồ với nguyên chất đạo đức của họ và qua chức vụ bên trong của Đức Thánh Linh, thế gian sẽ bị phân huỷ về mặt đạo đức và mặt thuộc linh vì cớ tình trạng tội lỗi của con người, quan điểm của con người và hoạt động liên tục của Satan.
Tích cực: Chúng ta phải nhìn biết trách nhiệm của mình là phải được nêm nếm với mùi vị sự sống của Đấng Christ qua những đời sống đầy dẫy Ngôi Lời, đầy dẫy Đức Thánh Linh để chúng ta có một tác dụng bảo tồn và chữa lành đổ ra trên xã hội. Tác dụng nầy ít nhất có 5 việc:
·Sống hy sinh: Đổ ra và bị bán cho Đức Chúa Giêxu Christ (Philíp 2.17; II Timôthê 4.6).
·Truyền giáo: Được nêm với muối để chúng ta đem người bị hư mất về với Đức Chúa Giêxu Christ (Côlôse 4.5-6).
·Gây dựng hay làm nên thánh: Tự tấn tới và giúp đỡ nhiều người khác được y như thế. Tác dụng nầy chữa lành và bảo tồn. Thường thì các tín đồ là một thế lực đối ngược và gây ra tình trạng bịnh tật, hơn là chữa lành. Hội Thánh tại thành Côrinhtô là một gương xấu.
·Hiệp một hay hoà thuận với nhau: Hãy nhớ Đấng Christ đã phán: “Các ngươi phải có muối trong lòng mình, lại phải hòa thuận cùng nhau” (Mác 9.50).
·Vâng phục và dính díu với xã hội (Rôma  13.1-10; Tít 3.1-3; I Phierơ 2.13-17)
(2) Một thế lực kích thích. Muối không những nêm nếm, làm sạch, và bảo tồn, muối còn kích thích nữa. Khi sống theo đời sống Cơ đốc và chu toàn ý chỉ của Đức Chúa Trời, điều nầy sẽ luôn luôn đụng phải ai đó đang đi đường sai quấy (Giăng 15.19). Sống tin kính là một sự quở trách cho nhiều người và họ sẽ chỉ trích và thù hiềm người tin Chúa vì đời sống đó. Hãy nhớ chỉ có muối mà không kích thích là muối đã “mất mặn rồi”. Đáng tiếc thay, đây là những gì đang đánh dấu rất nhiều về Hội Thánh tại nước Mỹ ngày nay. Nước Mỹ đã mất đi tính cách phân biệt của nó. Hầu hết chúng ta đều đã đọc thấy về những cuộc bầu cử được tổ chức trong xứ sở của chúng ta, những lần bầu bán đó bày tỏ ra những giá trị, những ưu điểm của Cơ đốc nhân mẫu mực là tương tự nếu không phải là rất giống với những ứng cử viên chưa hề xưng mình là Cơ đốc nhân.
KẾT LUẬN:
Đức Chúa Trời đã làm ra một phép lạ trong đời sống của Êlisê để dạy cho chúng ta biết loại tác dụng và mục đích mà những người tin Chúa cần phải có trong thế gian nầy. Nhiều người đã đến với Êlisê từ thành Giêricô vì uy quyền trong đời sống và chức vụ của ông. Êlisê đã chứng tỏ rằng Đức Chúa Trời vốn là thực, rằng một mình Đức Chúa Trời có những câu trả lời cho sự trơ trụi của cuộc sống, và một mình Đức Chúa Trời có thể cung ứng ý nghĩa và tình trạng kết quả cho cuộc sống.
Những câu hỏi ứng dụng:
(1) Có phải chúng ta đang sống theo Cơ đốc giáo uy quyền, được nêm nếm với sự sống của Đấng Christ, sống có mục đích, biết hy sinh, bày tỏ ra thân vị và tình yêu của Đấng Christ cho một thế giới bịnh hoạn và hư mất?
(2) Có phải chúng ta dính dáng vào xã hội để làm điều lành, hay chúng ta là một phần của nan đề?
(3) Có phải chúng ta là một thế lực cho sự hiệp một và hoà thuận trong bầy của Đức Chúa Trời, hay có phải chúng ta là một thế lực cho sự bất hoà, một kẻ gieo ra hột giống bất hoà giữa vòng các anh em mình?
Một trong những mối ngăn trở lớn lao nhất cho công cuộc truyền giáo là sự bất hoà. Vì vậy chúng ta phải trở thành những cái bình mới, đựng đầy muối, được nêm nếm và đổ ra vì một thế giới bịnh hoạn và đang dãy chết.

***